Thụy Khuê

 

Quê hương ngày trở lại

I. Sài Gòn-Châu Đốc-Hà Tiên
II. Côn Đảo
III.
Nha Trang
IV. Phú Yên
V. Quy Nhơn

VI. Dòng họ Nguyễn Tường ở Hội An
VII. Trận Đà Nẵng 1847 và 1858
VIII. Huế
IX. Trên đường ra Bắc

X. Về quê Bắc
 

IV. Phú Yên

  

Từ Nha Trang chúng tôi đi dọc bờ biển Phú Yên lên Quy Nhơn, qua Vạn Giã, Đại Lãnh, Tuy Hòa... cảnh đẹp vô cùng, bao ghềnh đá, đầm, vịnh, mỏm, bãi... không bút nào tả hết được.

Phú Yên là vùng đất địa đầu phía Nam mà chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613) đã chinh phục đầu thế kỷ XVII. Biên giới phía Nam lúc bấy giờ tới Đèo Cả. Năm 1611, Nguyễn Hoàng mới đặt phủ Phú Yên, cho Văn Phong (không rõ họ) làm Lưu thủ. Năm 1629, dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), Văn Phong làm phản, bị Nguyễn Phước Vinh (con trai Mạc Cảnh Huống và con rể Chúa Sãi, vì có công nên được đổi thành họ Nguyễn Phước) dẹp tan. Chúa Sãi lập thêm Trấn Biên (Khánh Hòa ngày nay). Nhà thờ Hà Dừa ở Nha Trang, có phong cách của những nhà thờ đầu tiên trên đất Việt (theo sự mô tả của giáo sĩ Cristoforo Borri ở dưới) vì có những cột toàn bằng gỗ lim, thổ sản vùng này.

Bãi biển Đại Lãnh

Đầm Ô Loan dưới chân đèo Quán Cau thuộc địa phận huyện Tuy An, Phú Yên

Gành Đá Điã ở Phú Yên là một thắng cảnh rất lạ, đó là một quần đá, có đến hàng vạn điã đá chồng chất lên nhau, với những hình thù kỳ dị ngoạn mục.

Ghềnh Đá Điã

Nhưng về di tích tôn giáo, đáng kể là nhà thờ Mằng Lăng.

Nhà thờ Mằng Lăng

Nhà thờ Mằng Lăng ở Phú Yên, không cổ như Hà Dừa, nhưng bên cạnh nhà thờ có một cái hang là nơi thờ phụng á thánh André Phú Yên và lưu trữ một bản cuốn sách song ngữ Việt-La Cathechismus (Phép giảng tám ngày) của Alexandre de Rhodes, xuất bản tại La Mã năm 1651. Tinh Việt in lại tại Sài Gòn năm 1961. Bản lưu trữ ở đây là bản in ở Sài Gòn, những chữ quốc ngữ cổ đã bị sửa, không viết theo bản gốc, nên đối với việc nghiên cứu ngữ học, không có nhiều giá trị.

Nhà thờ Mằng Lăng lập trên địa phận được coi là quê hương của á thánh André Phú Yên, người thầy giảng bị tử hình đầu tiên ờ Đàng Trong. André là tên thánh, Phú Yên là tên quê quán. Sau này linh mục Cadière tìm được tên Lý, không biết là tên hay họ, sẽ nói đến sau. Nhưng ở Phú Yên, người ta không tìm được tên thật của người thầy giảng Việt Nam đầu tiên bị hành hình ngày 26/7/1644, ở tuổi 19, tại Thanh Chiêm (Dinh Chàm) thủ phủ tỉnh Quảng Nam (nay không còn nữa, nhưng thuộc điạ phận Phước Kiều, Hội An), mà Alexandre de Rhodes đã tham dự, và ông viết bài tường thuật việc này để đánh động dư luận và ông đem thủ cấp của André về La Mã để báo cáo với Giáo hoàng tình trạng người Việt muốn theo đạo, nhưng các chúa Đàng Trong và Đàng Ngoài đán áp dã man, và đây là chứng cớ.

Gần đây có phong trào tôn vinh tột độ Alexandre de Rhodes, coi ông là cha đẻ của chữ quốc ngữ, đã mở mang đầu óc cho dân ta, nhờ chữ quốc ngữ mà ta đến được với thế giới bên ngoài, tiếp thu được văn minh Tây phương... Người ta tổ chức đi hành hương sang Iran, đến viếng mộ Alexandre de Rhodes như đi lễ Đền Hùng, đền Đức Thánh Trần...

Vì vậy cần tìm hiểu lại xem Alexandre de Rhodes là ai? Ông có công gì với nước Việt và người Việt? Nhưng muốn hiểu rõ hành trình của de Rhodes, phải trở lại giai đoạn trước khi de Rhodes đến Đàng Trong, tức là thời kỳ đầu tiên đạo Thiên Chúa truyền vào Việt Nam và sự phát sinh ra chữ quốc ngữ.

 

Bài viết này chia làm hai phần:

I. Phần đầu trình bầy Ký sự của giáo sĩ Cristoforo Borri (1583-1632), người đến Đàng Trong năm 1618, và là tác giả duy nhất mô tả kỹ càng xã hội Đàng Trong thời chúa Sãi và thời kỳ truyền giáo đầu tiên ở nước ta, giai đoạn trước khi Alexandre de Rhodes (1651-1660) đến Đàng Trong (12/1624).

II. Phần thứ hai, trình bầy hành trình của Alexandre de Rhodes ở Đàng Trong và Đàng Ngoài và sự vận động của ông với Roma sau khi rời Việt Nam.

 

I- Cristoforo Borri

 

Khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hoá (1558), ông lập Dinh ở Ái Tử rồi sau đổi đến Trà Bát (1570), thuộc Quảng Trị, gọi là Cát Dinh. Lúc đó không gọi là kinh đô, vì kinh đô là Đông Kinh (tức Thăng Long) mà người Âu phiên âm thành Tunkin rồi Tonkin, nơi vua Lê ngự. Nguyễn Hoàng còn trở lại Bắc năm 1569, chầu vua Lê và năm 1572, viếng Trịnh Kiểm mất. Năm 1593, ông lại ra Bắc giúp Trịnh Tùng dẹp nốt dư đảng nhà Mạc, rồi bị Trịnh Tùng cầm chân ở Bắc trong 8 năm (1593-1600). Trong thời gian này, con trai thứ sáu của ông là Nguyễn Phước Nguyên quản trị Thuận Hoá và Quảng Nam. Năm 1600, Nguyễn Hoàng về lại Thuận Hoá, giữ khoảng cách với miền Bắc, xưng chúa tức Chúa Tiên (1600-1613). Sau khi ông mất, Nguyễn Phước Nguyên lên ngôi tức Chúa Sãi (1613-1635). Đến năm 1626, Chúa Sãi mới lập Phủ ở Phước Yên, thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi Cristoforo Borri đến Đàng Trong, năm 1618, thì chúa Sãi chưa ở Huế, mà chắc cũng không còn ở Quảng Trị nữa, vậy có lẽ ông ở Dinh Chàm, là thủ phủ Quảng Nam, nơi con trai trưởng của ông là Nguyễn Phước Kỳ làm Trấn Thủ.

Khi Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong, lần đầu vào cuối năm 1624, chúa Sãi vẫn còn sống, nhưng khi ông đến Đàng Trong bốn lần sau, từ 1640 đến 1645, thì đã sang thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648), con trai chúa Sãi.

 

Như ta đã biết, trước thế kỷ XVII, đã có những giáo sĩ đến Việt Nam, nhưng không có chủ đích truyền giáo và cũng chỉ ở một thời gian ngắn nên chưa có đạo Gia Tô ở Việt Nam. Đạo Gia Tô chỉ bắt đầu phát triển khi các giáo sĩ Dòng Tên đến Touran (tức Tourane, Đà Nẵng) năm 1615. Tháng 3/1626, tức là 10 năm sau, giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti mới đến Tunkin (Đông Kinh).

Ba giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên đến Đàng Trong là: linh mục Francesco Buzomi (Ý), linh mục Diego Carvalho (Bồ) và thầy giảng Antonio Dias (Bồ), đến Cửa Hàn (Đà Nẵng) ngày 18/1/1615.

Francesco Buzomi (1576-1639) ở Đàng Trong lâu nhất, ông đã xây dựng nền móng đạo Thiên chúa, ông dựng ngôi nhà thờ đầu tiên ở Đà Nẵng, nhưng ông không nói được tiếng Việt, phải giảng đạo qua thông ngôn. Năm 1639 chúa Thượng Nguyễn Phước Lan phái ông về Macao lo công việc cho chúa, rồi ông bị bệnh và mất ở Macao năm đó.

Diego Carvalho (1576-1624) chỉ ở Đàng Trong một năm, năm 1616, ông trở về Nhật truyền đạo, và theo lời kể của Borri, ông bị ném xuống hồ nước lạnh, dầm gió tuyết, chết cóng ngày 22/2/1624, tại Nhật.

Antonio Dias (Bồ) ở lại Đàng Trong đến 1639, thì bị chúa Thượng Nguyễn Phước Lan trục xuất.

Sau khi Carvalho sang Nhật, Francesco Buzomi ở lại Đàng Trong với người trợ giảng, ông đã ráo riết hoạt động và đã thành công: xây được nhà thờ đầu tiên ở Đà Nẵng. Macao bèn gửi linh mục Francesco de Pina (1585-1625) người Bồ, sang trợ giúp. Francesco de Pina, là người Âu châu đầu tiên nói thạo tiếng Việt, ông đã theo cách ghi lại tiếng Nhật của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật, để viết tiếng Việt theo mẫu tự la tinh (a, b, c....). Theo linh mục Đỗ Quang Chính, năm 1620, các tu sĩ dòng Tên tại Hội An đã soạn thảo một cuốn sách giáo lý bằng "chữ Đàng Trong". Chính Francesco de Pina đã dậy de Rhodes tiếng Việt khi ông này đến Đà Nẵng tháng 12/1624. Ngày 15/12/1625 linh mục de Pina bị chết đuối ở Vịnh Đà Nẵng, thi hài ông được đem về chôn tại Đà Nẵng.

 

Francesco de Pina

Nhưng một biến cố chẳng lành xẩy ra, việc giảng đạo bị ngừng, các giáo sĩ ở trong tình trạng khẩn cấp. Năm 1618, Macao bèn gửi linh mục Cristoforo Borri (1583-1632), người Ý và linh mục Pietro Marches (tức Pedro Marquez) (1613-1670) người Bồ lai Nhật, sang trợ giúp.

Cristoforo Borri là một nhà bác học, quê ở Milan. Qua sáu tháng học tập, ông đã nói chuyện và "giải tội" bằng tiếng Việt. Nhập dòng Tên ngày 16/9/1601. Năm 1615, ông đi Đông Á truyền giáo. Năm 1618, ông cùng với Pedro Marquez, giả làm bồi tầu, đi thuyền Bồ từ Macao đến Đàng Trong. Trong danh sách các giáo sĩ đến VN, ông là người thứ chín. Sau khi thiết lập xong cơ sở đạo Gia Tô ở Đàng Trong, năm 1622, Borri rời Nước Mặn (thuộc Bình Định), sang Macao, rồi về Ý. Sau ông bị trục xuất khỏi giáo hội, ông kiện và thắng kiện. Ông mất bất ngờ ngày 24/5/1632, một cái chết được gọi là "tai nạn" ở Roma.

Cristoforo Borri là tác giả tập Ký sự nổi tiếng về Đàng Trong, xuất bản lần đầu năm 1631, tại Roma, rồi sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản in trên BAVH, quyển 3-4, 1931, do Đại tá Bonifacy dịch và chú giải. Bonifacy là giảng viên môn lịch sử bản xứ tại Trường Đại Học Hà Nội, và là đặc phái viên của trường Viễn Đông Bác Cổ.

Ký Sự Đàng Trong

 

Tập Ký sự Đàng Trong có tên đầy đủ là Ký sự của Tân phái bộ Tu sĩ dòng Tên ở Vương quốc Đàng Trong. Đây là tác phẩm đầy đủ nhất về con người, sản vật, xã hội, chính trị Đàng Trong, đồng thời ghi lại lịch sử những bước đầu tiên của đạo Gia Tô ở Việt Nam.

Đối với chữ quốc ngữ, tác phẩm của Borri còn có ý nghiã nguồn cội: trong 5 năm ở Đàng Trong (từ 1618 đến 1622) ông đã học tiếng Việt và ghi lại những chữ quốc ngữ, đầu tiên hết là những điạ danh: Sinua (Thuận Hoá), Cacciam (Kẻ Chàm, Quảng Nam), Quamgua (Quảng Nghiã, tức Quảng Ngãi), Quignin (Quy Nhơn), Renran (phiên âm tên sông Đà Rằng, tức Phú Yên), rồi dần dần ông viết những câu ngắn: Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt (Đã đến lụt, đã đến lụt )... Ông coi Balaciam (nước mắm) là thứ gia vị thực phẩm của Trời, chỉ một vài giọt đủ tăng thêm giá trị thức ăn không đâu có được. Ông cho sầu riêng là trái cây tuyệt vời trần thế. Borri thấy người Đàng Trong phần đông đi chân đất (có ít người đi xăng đan, kiểu dây buộc như mốt bây giờ) ông và các giáo sĩ cũng quen đi chân đất, sau này về lại Macao, không chui chân vào giầy nữa. Ông mô tả bữa ăn xem ra không khác bây giờ: ăn cơm trắng với các món ăn, gắp bằng đũa. Người mình thời đó đã uống chìa (trà). Có hai thứ Đông y và Tây y, uống thuốc Tây không khỏi quay sang thuốc Ta lại khỏi. Ông chứng kiến một người Âu bị bọ cạp cắn, thuốc tây không chữa được, chờ chết. Mời thầy ta đến, thầy thuốc sai thổi một nồi cơm, để nạn nhân ngồi lên trên trùm chăn kín mít, nước cơm xông lên, vết thương xẹp dần, nạn nhân thoát chết.

Về chính trị và học thuật, Borri nhận xét: "Người Nhật trọng binh bị hơn văn chương, người Hoa trọng văn chương hơn binh bị, còn người Đàng Trong chuyên chú đến cả hai ngành. Đàng Trong có nhiều học viện ở đó có những giáo sư, những học phái, học vị, được khảo hạch qua các kỳ thi, giống như bên Tầu. Người ta dạy những môn, dùng các thứ sách của Khổng tử, Lão tử, tác giả những triết thuyết sâu sắc. Khổng Tử được họ kính trọng như Aristote đối với Âu châu. Những kinh sách này đầy dẫy những điều uyên bác. Họ dùng nhiều năm để học hiểu tính chất của một câu, một lời nói, một chữ, và cách người ta viết chữ đó. Tuy nhiên, đối với họ quan trọng nhất là triết học tinh thần, đạo đức, kinh tế và chính trị."

Borri cho rằng tiếng Việt dễ học vì không cần chia động từ, vì vậy chỉ trong 6 tháng ông đã biết nói và nghe xưng tội, nhưng muốn làm chủ ngôn ngữ này thì phải 4 năm. Borri mô tả chúa Sãi luyện quân: người Việt vớt súng ống của những thuyền Hòa Lan hay thuyền Bồ gặp bão tạt vào bờ, nên họ rất sành sử dụng những loại súng này. Mỗi khi có tầu Âu ghé vào hải cảng, những thủy thủ của chúa liền thách đố pháo binh của người Âu, những người Âu này biết rõ không thắng nổi nên luôn luôn tránh những cuộc thách đố đó. Vì họ luyện tập không ngừng nên họ bắn trúng đích hơn người Âu, trong khi, họ chỉ có những khẩu đại bác (tồi) mà họ bắn trúng hơn người Âu với súng hỏa mai có tầm nhắm tối tân hơn.

Chúa Sãi có hơn trăm chiến thuyền, lại có đại bác trên bộ, nên càng muốn đối đầu với Chúa Trịnh vì ông nghĩ mình nắm chắc phần thắng, nhất là chúa buôn bán thường xuyên với Nhật mua được nhiểu mã tấu rèn luyện rất tinh vi của Nhật. [Theo Baldinotti, lực lượng của chúa Trịnh mạnh gấp bốn lần, chúa Trịnh có 500 chiến thuyền. Nhưng ta biết, chúa Trịnh Tráng luôn luôn đánh trước và lần nào cũng thua]. Chúa lại giúp đỡ người Miên, chống lại quân Xiêm. Vì lẽ đó mà khắp nơi, trên biển trên bộ đều vang danh sự hiển hách của quân đội Đàng Trong. Ông viết thêm: Quân kỷ và chiến thuật ở Đàng Trong, giống hệt như ở Âu Châu, cùng cách xếp đặt các đội ngũ, cách chiến đấu, tấn công hay triệt thoái như nhau. Chúa cấm tầu Hòa Lan cập bến cảng vì "ông biết rõ những người Hòa Lan là bọn cướp biển công khai, họ đã cướp phá vùng biển và ông đã cho họ những bài học đích đáng" [Những điều này phù hợp với chính sử của ta: chúa Sãi, năm 1585, khi còn là hoàng tử, đã đánh tan 5 chiến thuyền Hòa Lan ở Cửa Việt. Rồi đến năm 1643, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần, cháu nội chúa Sãi, lúc đó còn là Thế tử Dũng Lễ Hầu đã phá 10 chiếc tầu Hòa Lan ở cửa Eo, tức Thuận An].

Borri kể rõ lịch sử truyền giáo ở Đàng Trong.

Khi cha Carvalho đi Nhật rồi, cha Buzomi ở lại Đàng Trong với người trợ giảng, ông bắt đầu giảng đạo ở Đà Nẵng, mặc dù không biết tiếng và không có thông ngôn, ông chỉ biết vài tiếng để mua bán. Những giáo sĩ trước đến đây (không thuộc Dòng Tên) chỉ thu phục được mấy người ủng hộ miệng chứ chưa phải là con chiên; nhưng thay vì hỏi: Có muốn theo đạo Chúa không? Thì người thông ngôn của họ lại dịch ra là: Có muốn thành người Bồ Đào Nha không? Sở dĩ cha Buzomi nhận ra điều đó vì chính mắt cha nhìn thấy ở chợ, giữa hai màn kịch, có một kẻ mặc áo Bồ bước ra sân khấu, bụng phình tướng giấu một đứa bé bên trong. Y cho đứa bé thoát ra khỏi bụng và hỏi nó có muốn trở lại bụng mình không bằng câu: "Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam?" (Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?) đứa nhỏ trả lời: "Có". Thế là y lại cho nó chui vào trong bụng y, rồi y lại cho nó ra, và lại hỏi nguyên câu hỏi đó. Trò này lập đi lập lại nhiều lần, khán giả cười bò. Cha Buzomi lúc ấy mới nhận ra cái câu lập đi lập lại nhiều lần này: "Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam?" cũng chính là câu mà những người thông ngôn dùng để hỏi những ai muốn theo đạo Chúa không, (Lúc đó người Việt chưa phân biệt rõ người Hòa Lan với người Bồ Đào Nha, nên cho Hoa Lang và Bồ là một). Cha thấy cái sai lầm cơ bản đã reo rắc ở đây, khiến nhà trò chế giễu: theo đạo thiên Chúa chỉ là việc chui vào bụng người Bồ, nghiã là theo Đạo thì không còn là người VN nữa mà trở thành người Bồ Đào Nha. Cha bèn tìm cách hãm ngay sự sai lầm tai hại này, bằng cách dậy cho những ai đã rửa tội những bổn phận phải theo, và những ai muốn vào đạo phải biết thế nào là thánh lễ rửa tội, thế nào là một con chiên? Cha đổi câu hỏi thành: "Muon bau dau chritiam chiam [Muốn vào đạo christiang chăng?]. Và cha đã làm hết sức mình, với sự sốt sắng, với lòng nhân từ, chỉ trong ít ngày, đã thấy kết quả, cả về mặt biến đổi những người chỉ mới vào đạo miệng, lẫn những người muốn thực thụ nhập đạo Thiên chúa.

Buzomi có công đầu trong việc truyền giáo ở Đà Nẵng. Rồi ông đi khắp nơi, ông giảng đạo qua những người thông ngôn có trình độ và ông đã thành công. Ông đã thu phục được nhiều người quyền quý theo đạo ở Cacciam (Kẻ Chàm, tức Dinh Chàm) là nơi Chúa ở. Borri kể tiếp: Cha Buzomi đã hết sức vận động khiến triều đình ban cho cha một mảnh đất để xây nhà thờ, xây nhanh lắm, tất cả con chiên đều góp phần vào, người góp công, người góp của. Cha cũng được một nơi làm nhà ở, tốt, sạch, để giáo huấn dân tộc này niềm tin thánh chúa.

Tất cả những việc này sở dĩ làm được là nhờ sự giúp đỡ của một bà quý tộc, bà đã rửa tội và lấy tên thánh là Giovanna [Jeanne]. Không những bà bỏ tiền ra xây nhà thờ và nhà ở cho cha, mà bà còn dựng nhiều bệ thờ và phòng nguyện ngay trong dinh cơ của bà.

Tiếng đồn vang đến Macao, Cha Tỉnh (tức là cha bề trên) thấy cần phải gửi ngay một linh mục trẻ, và một thày trợ giảng, người Nhật, cùng đến, để sau khi học tiếng, ông có thể giảng đạo, không cần thông ngôn. Linh mục trẻ này chính là cha Francesco de Pina (1585-1625), người Bồ, đã từng học Thần học với cha Buzomi. Tuy năm thứ hai này không gặt hái được kết quả dồi dào bằng năm thứ nhất trong việc thu phục con chiên, nhưng kết quả cũng không nhỏ, và kẻ thù đã nhìn thấy và cố gắng vùi dập, gây ra cuộc đàn áp lớn. [Cuộc đàn áp lớn này chính là sự tranh chấp đầu tiên giữa Phật giáo và Thiên chúa giáo]. Theo Borri: các ongsaij (ông sãi, hay ông sư) họp nhau lại, đặt câu hỏi: tại sao thánh thần lại giận giữ làm hạn hán mất mùa để cho dân chết đói đầy đường? Và họ kết luận: là vì ta cho người ngoại quốc vào giảng cái đạo không hợp với luân thường đạo lý [không thờ cúng tổ tiên]. Và họ đã xin Chúa dẹp ngay cái đạo đó đi để làm đẹp lòng thần thánh. Chúa Sãi không tin dị đoan, Chúa vẫn quý chúng tôi, nhưng ông không thể cưỡng lại lòng dân vì sợ có loạn, chúa bèn gọi các linh mục lại, và thành tâm nói với họ rằng: các ông phải đi đi, và sớm rời đất nước này càng sớm càng tốt. Các giáo sĩ sửa soạn lên tầu, nhưng bị gió mùa thổi ngược lại, và bị dân chúng ngăn cấm không cho họ trở lại đất liền, phải ở trên bãi cát, chịu đựng nóng, gió [Lào] khắc nghiệt, và tuyệt vọng nhìn thấy nhà thờ Turon (Đà Nẵng) bị đốt cháy. Nhưng con chiên đã tận tình giúp đỡ họ, nhất là đức bà Giovanna.

Tin này truyền đến Macao, Cha Tỉnh quyết định gửi người đến trợ giúp trên chiếc tầu Bồ sắp đi Đàng Trong, vì vậy Cristoforo Borri, người Ý và Pietro Marches (tức Pedro Marquez) người Bồ lai Nhật, được gửi đi Đàng Trong. Họ cải trang làm bồi, đi trên tầu Bồ đến Đà Nẵng. Đến nơi, bại lộ, bị bắt, nhưng cùng lúc đó trời nổi mưa, dân chúng cho rằng họ đem mưa đến, nên tha tội cho họ, để quay đầu vào việc mùa màng.

Borri quyết định đi tìm cha Buzomi và ông tìm đến Đức bà Giovanna (Jeanne) bà cho biết, cha Francesco de Pina với cha người Nhật, đã được những người Nhật có đạo bí mật dẫn về Faifo (Hội An). Cha Pietro Marches, rất thạo tiếng Nhật, muốn đi Faifo, và ở đấy, chúng tôi đã gặp lại cha Francesco de Pina, vẫn sống giấu diếm, nhưng được người Nhật trông nom rất tử tế và ông vẫn giảng đạo. Gặp lại nhau chúng tôi mừng rỡ vô cùng, vì chúng tôi rất thân nhau và cùng ở trong giáo đoàn Macao.

Trong 15 ngày chúng tôi được người Nhật tiếp đãi một cách đế vương, và chúng tôi còn biết được tin mừng: hiện cha Buzomi đã được cứu nạn: Trong khi ông đang khốn khổ ở trên bờ biển Đà Nẵng với một mụn nhọt ác tính trên ngực, tưởng chết, thì không ngờ quan trấn thủ Pulucambi (Bình Định ngày nay) đến Turon, thấy người này đau đớn quá, trông như cái xác thoi thóp, động lòng thương cảm, ông hỏi người này là ai, vì sao lại rơi vào sự bất hạnh như thế này? Người ta thuật lại cho ông tất cả tình huống đã xẩy ra, rằng: người ta đã gán cho ông ta và những bạn đồng hành cái tội làm cho trời hạn hán, khiến dân chết đói, nên họ bị chúa ra lệnh trục xuất. Quan trấn thủ cười: Làm sao có thể gắn cho vị thầy tu ngoại quốc khốn khổ này cái điều chẳng dính dáng gì đến ông ta? Và ông ra lệnh khiêng thầy tu xuống thuyền, dẫn về vùng ông cai trị, cho ở trong tư dinh và mời những thầy thuốc danh tiếng và giỏi giang nhất trong triều đến chữa, lại sai các con trai ông tận tình chăm sóc cha Buzomi trong vòng một năm, cho đến ngày khỏi bệnh. Mọi người đều kinh ngạc thấy một vị quyền quý, vì lòng bác ái vị tha tự nhiên, đã xử sự cao đẹp như thế với một người lạ ngoại quốc.

Cha Buzomi ở Pulucambi cách hải cảng Turon một trăm năm mươi dặm; cha Marches ở lại Faifo (Hội An) làm cha bề trên, tương tế những người Nhật, cùng với cha de Pina; còn về phần tôi (Borri) tôi trở lại Turon để phục vụ những người Bồ, làm lễ, giảng đạo và nghe họ xưng tội.

Tôi cũng học tiếng Đàng Trong và tìm được cách, nhờ sự giúp đỡ của người thông ngôn, khuyến dụ thêm được những tín đồ mới trong đám những nhà vọng tộc, và nhất là chấn chỉnh và củng cố niềm tin của những người đã rửa tội.

Sau khi cha Buzomi hoàn toàn bình phục, ông được quan Trấn thủ Pulucambi dẫn về Quảng Nam, chúng tôi lại tụ tập nhau ở Hội An. Rồi cùng quyết định: cha Marches ở lại Faifo với thầy giảng Nhật để giảng đạo. Ba người kia và thầy giảng Bồ theo quan trấn thủ về Bình Định.

Borri kể tiếp: Các cha Buzomi, de Pina và tôi rời Faifo đi Pulucambi cùng với quan trấn thủ. Trong suốt cuộc hành trình, ông đã đối đãi với chúng tôi một cách lịch lãm và nồng hậu không thể tả, cho chúng tôi ở cùng với ông, cách xử sự không có động cơ nhân đạo nào giải thích nổi, mà phải công nhận đó là do sự an bài của Thượng đế.

Ông dành riêng một con thuyền lớn cho chúng tôi và những người thông ngôn, còn hành lý lại có một chiếc thuyền khác chở. Với tiện nghi như thế, chúng tôi đi trọn 12 ngày, sáng rời, tối cập bến, bởi tất cả các bến cảng đều gần gụi các thị trấn, hay tỉnh thành lớn của tỉnh Quanghia [Quảng Ngãi] và ở tỉnh này, quan trấn thủ cũng có quyền như ở tỉnh Pulucambi.

Mỗi lần chúng tôi mở miệng xin điều gì, là được ngay, khiến chúng tôi như có uy tín đối với quan trấn thủ. Khi về đến tư dinh cũng vậy, ông nói với gia nhân: "Ta đã nói chuyện nhiều và nhiều lần bàn luận với những người này, ta hiểu rõ đạo giáo mà họ truyền giảng, ta thấy không có đạo nào chân thực bằng, và cũng không có con đường nào khác ngoài con đường họ đi, để đạt tới cứu rỗi." Tuy vẫn là quý tộc, Đức ông diễn tả như thế, đã trở thành lệnh sứ truyền của Phúc Âm, trước sự ngạc nhiên và kinh hãi lớn lao của người nghe, bởi ai cũng biết ông rất thận trọng (trong lời nói).

Tám ngày sau, ông ra lệnh xây cho chúng tôi một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố Nước Mặn [Xin nhắc lại: Tỉnh Pulucambi gồm cả ba thành phố Nước Mặn, Nước Ngọt, và Qui Nhơn, tức là tỉnh Bình Định ngày nay]. Sau khi nhìn qua những chỗ ở trong dinh ông, gồm độ hơn trăm nóc nhà, ông nói với chúng tôi chọn một căn sạch sẽ nhất (có thể) làm nhà thờ, và bảo cho ông biết để khi cần đến ông sẽ cho. Ông cấp cho chúng tôi tiền bạc để tiêu dùng và sai tiếp tế thực phẩm ăn uống đầy đủ cho cả "phái đoàn" gồm các tu sĩ, các thông ngôn và người hầu cận.

Sau đó quan trấn thủ bảo chúng tôi chọn chỗ để xây nhà thờ để ông đến xem và ước lượng các phiến gỗ, cột, kèo... cần thiết. Chỉ ba ngày sau, chúng tôi được báo tin "nhà thờ đã đến". Không hiểu "đến" bằng cách nào, chỉ biết theo chỗ chúng tôi chọn thì nhà thờ không thể lớn và sẽ có nhiều cột để dựng. Lúc đó chúng tôi mới hiểu, ở nhà quê, chỗ dinh ông có sẵn một đội ngũ cả ngàn người bắt tay vào việc. Mỗi cột lớn, được ba mươi người lực điền khênh, còn những người khác, người thì mang đầu cột, mang kèo, mang rui, mang các mảnh ván, mang ghế, mỗi người cầm một thứ gì đó, kéo nhau vào nhà chúng tôi để giữa sân. Ông kiến trúc sư đến, ông đo dây thừng và lượng lại các khoảng cách đâu đó xong rồi ông bảo những người khênh cột đến, mỗi cái được trồng đúng nơi chốn của nó, sau đó ông gọi tiếp các mảnh khác và người ta cứ tuần tự đem đến lắp xong, theo đúng trật tự răm rắp, chúng tôi ngạc nhiên và kinh hoàng, chỉ một ngày, họ đã dựng xong nhà thờ! Nhưng có lẽ làm vội quá nên nhà thờ hơi bị nghiêng về một phía. Quan trấn thủ biết tin gọi ngay kiến trúc sư ra lệnh phải sửa không sẽ bị chặt chân, muốn cần bao nhiêu thợ cũng được. Ông kiến trúc sư bình tĩnh bảo họ tháo nhà thờ ra từng mảnh và dựng lại hoàn hảo trong một thời gian rất ngắn.

Nhưng chẳng may cho phái đoàn giáo sĩ: quan trấn thủ, sau một buổi cưỡi voi đi săn bị cảm nắng nặng, ông qua đời. Phái đoàn không còn trợ cấp, rơi vào tình trạng thê thảm. Rồi phải quyết định: Vì không còn cấp dưỡng và cũng không truyền đạo được, linh mục de Pina trở về Faifo, nhờ người Nhật quyên góp cứu trợ; vì ông biết rõ tiếng Việt, ông nói thông thạo tự nhiên, cho nên ông đã không bỏ lỡ cơ hội để truyền giáo cho người Vìệt. Cha Buzomi đi Đà Nẵng, đem theo người thông ngôn giỏi nhất, để xin người Bồ cứu giúp. Tôi và hai người trợ giảng ở lại Nước Mặn, tìm cách sống sót cho tới khi nào nhận được sự giúp đỡ của Macao.

Tôi ở lại Pulucambi, cô đơn sầu não. Bỗng một ngày, trước cửa xuất hiện một đàn voi với đoàn tùy tùng gồm nhiều ông bà quyền quý. Sau cùng bà lớn xuất hiện, đài các trong quần áo nữ trang sang trọng. Tôi ra tiếp rước, mới biết bà là phu nhân sứ thần của vua Đàng Trong gửi sang Cao Miên, sứ thần người gốc Nước Mặn. (Theo Bonifacy, chúa Sãi gả con gái cho vua Miên Chey Chettha II (Brah Jaya Cestha), nhờ bà, mà vua Prãh Chey Chettha cho xây Toà sứ Việt Nam và Thương cuộc ở vùng Sài Gòn hiện nay).

Sau khi chào hỏi, phu nhân đại sứ nói ngay cho Borri biết chủ đích của bà: Bà đến đây vì đã nghe tiếng đồn rất tốt về ông, về đạo mà ông truyền giảng, và theo bà chỉ có con đường đó là con đường cứu rỗi mà bà hằng nguyện ước, và bà mong được ông rửa tội.

Tôi khen ngợi quyết định của bà nhưng cáo lỗi là chưa thể thực hiện ngay đưọc, bởi vì tôi có biết chút ít tiếng Việt nhưng không đủ để giảng đạo pháp, và khuyên bà nên đợi cha Buzomi đi Turon trở về trong ít ngày nữa với người thông ngôn giỏi, như vậy bà sẽ được thụ pháp đầy đủ, như bà mong đợi. Nhưng bà nhất quyết muốn làm ngay, mượn cớ chồng bà hiện đang ở trong triều có thể về tới bất cứ lúc nào và bà sẽ phải theo chồng lên thuyền đi sang Miên, biết đâu trên đường đi chẳng gặp sóng gió, mắc nạn, rồi không bao giờ bà còn dịp quy đạo nữa. Borri đành phải bắt đầu giảng đạo pháp cho bà, may mắn thay, vài hôm sau cha Buzomi trở lại với người thông ngôn và bà đã chuyên cần học trong hai tuần lễ, thuộc hết giáo lý đại cương. Và một ngày đẹp trời, ngày đẹp nhất của đời tôi, tôi đã làm lễ rửa tội cho tất cả 25 người phụ nữ xinh đẹp, xiêm áo lộng lẫy, được các đức ông quyền quý tháp tùng, tại nhà thờ Nước Mặn, đi đầu là đại sứ phu nhân, dưới tên thánh Orsola (Ursule tiếng Pháp). Sự kiện đó làm rạng danh chúa, với số con chiên đầu tiên, mở cửa cho Hội truyền giáo ở Đàng Trong (Mission de Cochinchine).

Rồi sau đó, cha Borri lại tính đúng ngày nhật thực, càng làm cho nhóm giáo sĩ có uy tín thêm trước mắt Chúa Sãi, thế tử Kỳ và triều đình. Những ngày tươi sáng trở lại: Cha de Pina và cha  Marches di Faifo giảng đạo. Nhà thờ Đà Nẵng trước bị đốt nay được các cha dòng Tên cùng con chiên xây dựng lại. Trong tình trạng tốt đẹp đó, Borri rời Đàng Trong năm 1622, để về Âu Châu. Đến cuối năm 1624, Alexandre de Rhodes sang VN.

 

Trong những ân nhân của các giáo sĩ, đáng kể nhất là quan trấn thủ Bình Định, hiện chưa biết  ông là ai, cần phải nghiên cứu thêm. Borri chịu ơn hai phụ nữ quyền quý, thứ nhất là đức bà Giovanna [Jeanne, tiếng Pháp] và sau đến phu nhân sứ thần Đàng Trong ở Cao Mên, dưới tên thánh Orsola (Ursule tiếng Pháp). Ông không cho biết gì thêm về thân thế hai người này.

Linh mục Cadière đã nghiên cứu và ông rất khâm phục bà Minh Đức Vương Thái Phi, tên thánh là Marie, ông viết: "Bà Marie! Một khuôn mặt thật quyến rũ. Tôi đã say mê trong nhiều năm tháng". Nhưng ông không nói bà Marie có phải là bà Jeanne hay không, tuy nhiên cuộc đời, hành động và thời kỳ sống của hai người này rất giống nhau, ta có thể cho hai người này là một.

Cadière quyết đoán bà Marie tức là Minh Đức Vương Thái Phi, bà phi của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Điều này giải thích uy quyền của bà, tại sao bà có nhà thờ ở trong cung, bà xây nhà thờ cho Buzomi và bao che cho tất cả những giáo sĩ từ Buzomi đến Alexandre de Rhodes. Bà Minh Đức Thái Phi là mẹ của Nguyễn Phước Khê, em út chúa Sãi. Sau khi chúa Sãi băng hà, Hoàng tử Khê sẽ là cột trụ của triều đình, tuyệt đối trung thành với chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648), cháu ruột. Ông sẽ bắt mẹ phải phá nhà thờ của mình, sẽ nói đến sau.   

Cadière phân biệt bà Marie với bà Marie-Madeleine, vợ quan trấn thủ Ran Ran (Phú Yên), bà Marie-Madeleine không ở trong triều mà đi đi về về giữa Quảng Nam và Phú Yên, bà đã che chở và giúp đỡ giáo xứ Phú Yên rất nhiều. Tóm lại, hai bà Marie và Marie-Madeleine ở cùng thời và cùng sống lâu như nhau.

Chúng tôi đoán: quan trấn thủ Phú Yên là Nguyễn Phước Vinh, con rể chúa Sãi, người đã giúp chúa Sãi thu phục Trấn Biên tức Khánh Hòa năm 1629, đã nói ở trên. Nếu đúng như vậy, thì bà Marie-Madeleine là con gái chúa Sãi.

Tuy nhiên tất cả những điều này cần được kiểm chứng lại, có thể là đề tài nghiên cứu cho sinh viên ban sử học.

 

II. Alexandre de Rhodes

Alexandre de Rhodes sinh ngày 15/3/1591 tại Avignon, mất ngày 5/11/1660 tại Ispahan (Perse, tức Iran). 18 tuổi ông đến Roma, gia nhập dòng Tên ngày 14/4/1612, và tha thiết mong được đi Nhật Bản giảng đạo. Được Giáo Hoàng Paul V cho phép, rời Roma tháng 10/1618 để đi Lisbonne. Lúc đó Bồ Đào Nha là "con trưởng" của Giáo Hội, nên các giáo sĩ muốn đi giảng đạo ở đâu phải xin vua Bồ cho phép mới đi được. Ngày 4/4/1619, de Rhodes lên tầu đi Goa (Ấn Độ) là một trong những trung tâm Công giáo lớn nhất ở Á châu. Ông đến Goa ngày 9/10/1619, nhưng Nhật đã bế quan tỏa cảng từ năm1612, đã ban hành luật cấm đạo rất nghiêm ngặt từ tháng 1/1614, không thể lọt vào. Bề trên quyết định cho ông đi Đàng Trong. Tháng 12/1624, de Rhodes đáp tầu từ Macao đến Cửa Hàn (Đà Nẵng), 19 ngày sau tới Dinh Chàm, thủ phủ Quang Nam. Đến đây ông gặp ngay linh mục de Pina người thông bác tiếng Việt một thứ tiếng hoàn toàn khác tiếng Tầu, mới nghe như chim hót líu lo. (Trích Du Hành và Truyền giáo). Và ông đã ráo riết học tiếng Việt, trong bốn tháng ông nghe được xưng tội và trong sáu tháng ông giảng đạo được bằng tiếng Việt. Có một thằng bé giúp tôi phân biệt được dấu để nói cho trúng. De Rhodes ở lại Đà Nẵng 18 tháng.

Tháng 7/1626, De Rhodes và Pedro Marques trở về Macao. Ngày 12/3/1627, de Rhodes và Marques khởi hành từ Macao để đi Đàng Ngoài. Ngày 19/3/1627 họ đến Thanh Hóa. De Rhodes giảng đạo ở Đàng Ngoài đến tháng 5/1630, thì bị trục xuất. Trở về Macao, ông ở lại 10 năm bên Tầu. Sau đó ông trở lại Đàng Trong bốn lần từ 1640 đến 1644: (1/1640- 9/1640) (12/1640-7/1641) (1/1642-9/1643) (1/1644-7/1645). Lần cuối cùng, ông bị bắt, bị kết án tử hình, chúa ân xá nhưng trục xuất vĩnh viễn.

Ông để lại những tác phẩm chính: Tự điển Việt Bồ La (Roma, 1651), Sử Đàng Ngoài (Lyon 1652), Du hành và truyền giáo (Paris, 1653), Cái chết vinh hiển của thầy giảng André (Paris, 1653). Cuốn sách về cái chết của André, viết bằng hai thứ tiếng Ý và Pháp, với mục đích "cho thế giới biết" (sự tàn bạo của chúa Nguyễn) bằng Pháp văn cổ thế kỷ XVII, nên rất khó đọc, lại có nhiều chỗ quá đáng, nên chúng tôi chỉ dựa vào cuốn Du hành và truyền giáo, in bằng tiếng Pháp thông thường, chừng mực hơn, dễ hiểu hơn.

Ở đây, chúng tôi giới hạn trong ba điểm: 1. Ai là cha đẻ chữ quốc ngữ, 2. Hành trình Alexandre de Rhodes phỏng theo cuốn Du hành và truyền giáo, 3. Vận động của de Rhodes với Roma và kết quả sau khi ông mất.

 

II.1 Ai là cha đẻ chữ quốc ngữ

 Sự tôn vinh Alexandre de Rhodes một cách quá đáng vì cho rằng ông là "cha đẻ chữ quốc ngữ" có lẽ bắt nguồn từ khi chính quyền thực dân cho đặt bia tưởng niệm de Rhodes cạnh hồ Hoàn Kiếm, gần đền Bà Kiệu, tháng 5/1941, với ba thứ chữ: Pháp, Hán và Quốc ngữ, để ghi lại công ơn ông, và báo Tri Tân (tờ báo của trí thức Hà Nội) ngày 13/6/1941 đã phụ họa, bằng những hàng: "Ông Alexandre de Rhodes đã sống lại trong lòng người Hà Nội qua buổi lễ khai mạc bia tưởng niệm này. Buổi lễ được cử hành trong bầu khí thật trọng thể và xúc động [....] Bây giờ chữ quốc ngữ được coi là nền móng của tiếng Việt, vì thế chúng ta không thể không cảm ơn chân thành người đã sáng tạo ra nó: ông Alexande de Rhodes" (trích theo Alain Guillemin). Vậy, câu hỏi đầu tiên cần được trả lời là:

- Ai là tác giả chữ quốc ngữ?

Từ năm 1972, linh mục Đỗ Quang Chính (ĐQC) đã phân tích và chứng minh cặn kẽ để trả lời câu hỏi này trong cuốn Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659 -download pdf- (Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1972) hiện vẫn còn là tác phẩm tiêu biểu nhất về chuyên đề này. Linh mục đã báo động dư luận về việc tôn vinh thái quá Alexandre de Rhodes, ông đã đi khắp các thư viện công tư, thư viện công giáo Âu Á để tìm tư liệu, và ông đã tìm ra đầy đủ tư liệu viết tay để chứng minh rằng Alexandre De Rhodes không phải là người khai sinh ra chữ quốc ngữ.

Người đáng gọi là ông tổ của chữ quốc ngữ, phải là Francisco de Pina (Bồ). Ông đến Đàng Trong năm 1617 là người Tây phương đầu tiên thông thạo tiếng Việt. Theo ĐQC, de Pina đã theo cách của các giáo sĩ dòng Tên ở Nhật, để ghi lại tiếng Việt theo mẫu tự a, b, c. Và năm 1620, các tu sĩ dòng Tên tại Hội An đã soạn một cuốn sách giáo lý bằng "chữ Đàng Trong". Theo ĐQC, sách này chỉ có thể do de Pina viết tay bằng quốc ngữ, vì lúc đó ông là người Âu Châu giỏi tiếng Việt nhất, để các giáo sĩ chép lại mà dùng, còn người Việt sẽ viết lại bằng chữ Nôm. Sách này nay đã thất lạc, nhưng đây là cuốn sách quốc ngữ đầu tiên.

Ngoài ra, khi de Rhodes đến Đàng Trong cuối năm 1624, ông ở với de Pina gần một năm và chắc chắn de Pina đã dậy ông tiếng Việt, ông chỉ luyện dấu với một đứa trẻ. Sau 10 tháng học tập, de Rhodes giảng đạo được bằng tiếng Việt. Ngày 15/12/1625 cha de Pina chết đuối ở Vịnh Đà Nẵng. De Rhodes thừa hưởng những tài liệu về tiếng Việt của de Pina và nhóm giáo sĩ Hội An (Cristofori Borri, Pedro Marques và các thầy giảng người Việt). Theo ĐQC, lá thư của de Rhodes viết này 16/6/1635, gửi về Macao, chỉ có ba chữ: Ainão (địa danh ở Hải Nam), Tunquim Tunquin (Đông Kinh), ngoài ra không có chữ quốc ngữ nào khác, mặc dù lúc ấy ông đã tạm nói được tiếng Việt. Trong thư dài gửi về La Mã ngày 16/1/1631, để tường trình ba năm hoạt động truyền giáo của ông và linh mục Marques ở Đàng Ngoài, cũng chỉ có một chữ quốc ngữ là Thinhuã (Thanh Hóa). Tóm lại, chữ quốc ngữ của De Rhodes năm 1631 còn kém chữ quốc ngữ của Buzomi năm 1626, mặc dù Buzomi không nói được tiếng Việt.

Hai nhân vật soạn tự điển đầu tiên là linh mục Gaspar d'Amaral (1592-1645) người Bồ, đã soạn cuốn tự điển Việt-Bồ-La. Cha Amaral tới Đàng Ngoài tháng 10/1629 ở đến 5/1630 thì bị trục xuất cùng với de Rhodes và Marques. Năm 1631 ông trở lại Đàng Ngoài và ở lại 7 năm mới về Macao. Ông mất vì đắm tàu gần Hải Nam ngày 23/12/1645. Ngay từ năm 1632, Amaral mới ở Đàng Ngoài 28 tháng rưỡi mà đã viết quốc ngữ hay hơn de Rhodes năm 1636 rất nhiều. Trong 7 năm ở Đàng Ngoài ông đã nghiên cứu tiếng Việt và chữ quốc ngữ của ông gần với dạng hoàn chỉnh của ngày nay, tiếc rằng cuốn tự điển của ông chưa kịp in ông đã qua đời.

Thứ đến linh mục Antonio Barbosa (1594-1647), người Bồ, cuối tháng 4/1636 đến Đàng Ngoài, ở lại 6 năm. Tháng 5/1642, ông phải quay về Macao vì lý do sức khoẻ. Nhưng ông không hồi sức và mất năm 1647. Ông đã soạn cuốn tự điển Bồ-Việt.

De Rhodes dựa vào tư liệu de Pina để lại và dùng 2 bộ tự điển của Amaral và Barbosa để soạn cuốn từ điển Bồ-La-Hy. Đến năm 1659, thầy giảng Bento Thiện đã viết được cuốn sách Lịch sử nước Annam bằng chữ quốc ngữ.

Để truyền giáo, các giáo sĩ bắt buộc phải giảng đạo bằng tiếng Việt, và phải ghi lại bài giảng. Mới đầu họ học chữ Nôm, nhưng sau thấy khó quá, họ bèn nghĩ cách phiên âm tiếng Việt qua mẫu tự La tinh cho dễ đọc, theo lối của các giáo sĩ dòng Tên ở Nhật, với sự trợ giúp của các thầy giảng người Việt, nhưng vai trò quan trọng của những người Việt này không bao giờ được ghi lại.

Sách Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes

Tuy các giáo sĩ Bồ ở Nhật đã tìm cách viết tiếng Nhật bằng ngữ tự a, b, c, và họ đã in thành sách, nhưng tại sao, người Nhật không tiếp tục viết tiếng Nhật theo mẫu tự La tinh như chữ quốc ngữ? Bởi vì Mạc Phủ đã thấy rõ nguy cơ Tây phương, nên đã bế quan toả cảng từ năm 1612, đã ban hành dụ cấm đạo nghiêm ngặt từ tháng 1/1614. Trong khi ở nước ta, cả hai miền Nam Bắc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều mở cửa cho các giáo sĩ vào truyền đạo, lại có các bà phi, công chúa, theo đạo, đã che chở cho giáo dân, nên chữ quốc ngữ tiếp tục được truyền bá qua các giáo sĩ. Ngoài ra, sự cấm đạo ở nước ta không bao giờ nghiêm ngặt như ở Nhật. Tuy gọi là cấm nhưng các chúa đều đón tiếp giáo sĩ và còn quý mến họ nữa. Ký sự của các giáo sĩ phản ảnh rõ điều đó, đầu tiên là giáo sĩ Cristoforo Borri và sau đó là Alexandre de Rhodes.

 

 

II.2 Hành trình Alexandre de Rhodes

Bià sách Du hành và Truyền giáo

1- De Rhodes đến Đàng Trong và Đàng Ngoài

Theo Alexandre de Rhodes, trong cuốn Du Hành và Truyền giáo (Voyages et Missions) thì năm 1625, khi ông đến, đạo Gia Tô được giảng khắp nơi ở Đàng Trong: cha Buzomi vẫn giảng đạo ở Quinchin (Qui Nhơn), tôi [de Rhodes] ở với cha de Pina ở Cham (Quảng Nam), từ đó chúng tôi vào triều, hoặc đi chơi vài ngày ở Hoâ (Thuận Hóa), ở đó có một bà Lớn, có họ với nhà vua, trước vẫn mê tín thần thánh, sau nhận phép giảng của cha de Pina, nên được soi sáng, rửa tội với tên thánh Marie-Madeleine [thực ra là Marie, ông viết nhầm, còn bà Marie-Madeleine là vợ quan trấn thủ Phú Yên, xem kỳ trước] bà đã che chở cho đạo, và đưa thêm bao nhiêu người nữa vào đạo. Trong cung, bà có một nhà thờ riêng, và trong những lúc đạo bị đàn áp nhất, bà vẫn che chở cho giáo dân. [Bà Lớn này Cristoforo Borri gọi là bà Giovanna [Jeanne], de Rhodes gọi là bà Marie, Cadière xác định là bà Minh Đức Vương Thái Phi, thứ phi của Chuá Tiên Nguyễn Hoàng, Đỗ Quang Chính cho biết thêm: Bà còn có tên là Orancaya, bà được de Pina làm phép thánh tẩy năm 1625 [Điều này chắc sai, bà phải được rửa tội khoảng 1618, vì Borri đã viết về bà rồi], bà Minh Đức qua đời khoảng 1649, thọ 80 tuổi.

De Rhodes nói về cái chết của de Pina: Cha lấy thuyền nhỏ ra vịnh Đà Nẵng để thăm những người Bồ ở trên tầu. Khi cha xuống lại thuyền để trở về, bão nổi lên, thuyền bị lật, cha vướng áo dài, không bơi được nên bị chết đuối. Ông kể tiếp: vì người Bồ năm ấy [1625] không đem lại hàng hóa như chúa [Sãi] mong muốn, nên chúa nghe lời gièm pha của bọn chống đạo, cho rằng đạo không thờ cúng tổ tiên là tà đạo, nên chúa ra dụ cấm, và lệnh cho các tu sĩ phải tập trung ở Faifo. Chúng tôi bèn cầu cứu con trai trưởng của chúa [tức thế tử Nguyễn Phước Kỳ, lúc đó là Trấn Thủ Quảng Nam] xin ông cho chúng tôi ở lại đủ thời gian để làm lễ an táng cha de Pino. Sau đó chúa cũng dịu đi. Tôi [De Rhodes] đã ở lại Đàng Trong 18 tháng, và tôi rất mừng thấy số giáo dân ngày một tăng thêm.

Đến tháng 3/1626, giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti được gửi sang Đàng Ngoài, ông gặp khó khăn vì không biết tiếng Việt, Macao bèn gọi De Rhodes và Pedro Marques ra Bắc giúp đỡ. Tháng 7/1626, De Rhodes và Pedro Marques trở về Macao, rồi mới ra Bắc, vì không dám đi thẳng từ Nam ra Bắc, sợ chúa Trịnh nghi là gián điệp của chúa Nguyễn.

Ngày 12/3/1627, De Rhodes và Pedro Marques đến Thanh Hóa, nhưng Baldinotti đã bị chúa Trịnh Tráng đuổi vì tội cấm giáo dân thờ cúng tổ tiên. Lúc đó chúa Trịnh Tráng đang đánh miền Nam lần đầu. Quân Trịnh tiến đóng ở Thanh Hóa, de Rhodes dâng chúa một chiếc đồng hồ và một đồng hồ cát (sablier) được chúa nhận. Sau ông được chúa dẫn về Tonkin (Đông Kinh) còn gọi là Checho (Kẻ Chợ), được chúa mời ăn cơm nhiều lần và chúa ra lệnh xây cho ông một ngôi nhà ở và một nhà thờ. Ông kể: ông làm lễ rửa tội không ngừng nghỉ, cho cô em gái chúa 17 tuổi và một số người trong hoàng tộc, cho tướng sĩ, binh lính, cho 200 thầy tu, một người trong đám này dẫn đến 500 người giác ngộ, bỏ đạo thờ quỷ thần để theo đạo chúa. Những người theo đạo chúa này, với thánh giá và nước thánh, đã đuổi được quỷ thần, làm cho người bệnh khỏi bệnh, người mù thành sáng và làm cả người chết sống lại. (Du hành và truyền giáo, trang 116). Chưa đầy 8 ngày, họ chữa 272 người khỏi bệnh, tin đồn lan truyền khắp kinh thành. Một ông quan lớn đến cám ơn tôi, ông chảy nước mắt, những kẻ ngoại đạo thấy sự lầm lạc của mình mà hối cải. [Loại chuyện như thế này de Rhodes kể nhiều lắm không chép lại hết được. Thỉnh thoảng ông sợ người ta không tin ông thêm vào câu: tôi nói thực đấy, có sao tôi nói vậy.] Ông còn kể chuyện một bà cụ mộ đạo tên thánh là Benoite, bị bệnh đã chết, nhưng không nhận được phép tửa tội của ông vì ông đi vắng. Con trai bà tên Benoit và nhiều người nữa quỳ gối bên giường, vẩy nước phép và cầu nguyện, bà cụ tự nhiên sống lại, hoàn toàn khỏi bệnh (trang 118). Ông kể rất nhiều trường hợp thà chịu chết chứ không bỏ đạo. Và nước thánh của ông nhiệm mầu đến nỗi mỗi chủ nhật tôi phải dùng đến hơn 500 bình để phục vụ lòng mộ đạo của con chiên (trang 122).

Ở Bắc được một năm rưỡi thì ông bị quỷ thần ghen tỵ ám hại. Những con mụ đàn bà (kiểu vợ lẽ, nàng hầu) bị những người theo đạo (cấm đa thê) bỏ rơi, bắt đầu nói xấu đạo. Họ rêu rao: nếu chúa theo đạo thì cũng phải bỏ chuyện thê thiếp, thải hơn trăm cung nữ đi, làm cho chúa tức giận, ra dụ cấm đạo. Việc này chưa ngã ngũ, thì lại thêm một tin đồn mới, người ta xúi chúa rằng: những người theo đạo, đập vỡ tượng thánh thần. Họ còn đồn tôi (de Rhodes) là phù thuỷ, rằng hơi thở của tôi có bùa ngải làm mê hoặc người nghe. Đến nỗi chúa không cho tôi vào triều để phân trần và khi tôi vào được thì chúa cũng tránh xa. Tôi chịu đựng một thời gian, đến lúc chúa ra mặt chống tôi thẳng cánh, đó là năm 1630: Chúa cấm tôi không được giảng đạo, cho lệnh trục xuất tôi phải về Macao hoặc vào Đàng Trong, chuá ra dụ, in dán ở cột trước cửa nhà tôi. Dĩ nhiên tôi không chịu thua, tôi vẫn tiếp tục giảng đạo, nay nhà này mai nhà khác, lúc nào cũng có con chiên giấu. Được hai tháng, sau đó chúa cho 36 tên lính và một viên sĩ quan dẫn độ tôi lên thuyền. Tôi dụ được bọn lính theo đạo, nên tôi còn luẩn quẩn ở dọc bờ biển Bochin (Bố Chính, thuộc Quảng Bình, biên giới Nam Bắc) thêm vài tháng nữa. Đến lúc chúa hạ lệnh cấp bách: không lên tầu Bồ về Macao thì sẽ bị bắt như kẻ phiến loạn.

Như vậy là tôi ở Bắc được ba năm hai tháng (từ 19/3/1627 đến tháng 5/1630).

Về Macao, de Rhodes đi giảng đạo ở những tỉnh phiá nam nước Tầu nhưng ông không mãn nguyện vì ông không biết đủ tiếng Tầu để giảng mà phải qua thông ngôn. Ông bảo người Tầu kiêu ngạo hơn người Việt. Tuy ở Tầu 10 năm, nhưng ông không viết gì về Tầu cả. Dư luận cho rằng trong 10 năm này ông bị cầm chân [rất có thể Bề trên không thích những chuyện dông dài ông kể khi ông ở Đàng Ngoài, như cải tử hoàn sinh bằng nước thánh, hay rửa tội gần cả triều đình, lính tráng và mấy trăm thày tu, chẳng hạn]. Ông không được đi truyền giáo ở VN nữa, mặc dù, bao nhiêu giáo sĩ dòng Tên khác, đã được Macao gửi đến VN để tiếp tục việc truyền giáo và đã gặt hái kết quả tốt.

 

2- De Rhodes lẻn vào Đàng Trong lần thứ nhất

Tại sao ông trở lại Đàng Trong năm 1640? Câu chuyện được ông kể lại như thế này: Năm 1639, là năm tai hại cho đạo vì có một ông quan Trấn Thủ Quảng Nam là kẻ thù của đạo mà ông gọi là Onghebo (Ông Nghè Bộ) được ông mô tả như một quỷ sứ.

Nhưng ta lại biết rằng khi ông trở lại Đàng Trong năm 1640, chúa Sãi đã mất, ông ở dưới triều chúa Thượng Nguyễn Phước Lan. Quan Trấn Thủ Quảng Nam lúc đó phải là thế tử Nguyễn Phước Tần, vì chúa Nguyễn có lệ đặt thế tử làm Trấn thủ Quảng Nam (hoặc nếu không phải Thế tử thì cũng là một quan đại thần uy quyền bậc nhất trong triều), vì chức này giống như chức Thủ tướng, tuy là trấn thủ QN nhưng có quyền trên toàn diện miền Nam. Về hành chánh, chúa Sãi đã đặt Tam ti: Tố tụng có Đô Tri cầm đầu, thuế khóa có Cai Bạ, tế tự có Nha Uý, ba người này ở dưới quyền quan Trấn Thủ trực tiếp cai trị dân. Chúa Thượng đặt thêm: nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu, là Tứ trụ triều đình, trực tiếp giúp chúa trị vì. Onghebo mà de Rhodes kể ở đây, phiên âm từ Ông Nghè Cai Bạ (tiến sĩ cai bạ), vậy Onghebo là quan Cai bạ, coi việc thuế khóa, không hiểu sao lại luôn luôn đi rình bắt ông de Rhodes?

Một hôm Onghebo ra lệnh tịch thu Thánh giá của các tu sĩ đưa cho chúa và biạ chuyện bậy bạ về cây Thánh giá làm cho chúa kinh tởm, chúa liền hạ lệnh đốt thánh giá và ra lệnh cho ai mang sẽ bị tử hình. Người Bồ, có uy tín ở đây, cứu được cây Thánh giá, nhưng họ không cản được việc chúa đuổi các tu sĩ về Macao. Cha Buzomi, lúc đó đang ở Macao để điều đình công việc cho chúa, nghe tin này ngã bệnh chết [Điều này cũng không chắc, vì chẳng thấy chỗ nào nói đến chuyện cha Buzomi chết vì chúa ra lệnh cấm đạo, bởi cả đời cha ở VN, đã trải qua bao nhiêu cuộc cấm đạo, cha còn lạ gì]. Sau khi tất cả các cha bị đuổi đi rồi, bề trên ở Macao bèn gửi ông sang Đàng Trong để hoàn thành sứ mệnh: lấy lại lòng tin của chúa Thượng và tái lập Vương cung của Chúa Jésus tại Đàng Trong.

Tháng 2/1640, de Rhodes đến Hội An với cha Pierre Albert. Ông kể ông mua quà đút lót viên đại diện Nhật (tay này ngoại đạo và diệt đạo), từ kẻ thù, y trở thành bạn của ông, y cho người Nhật giấu ông và y còn chở ông vào Thuận Hóa. Ông lại dùng tiền mang đi từ Macao trù liệu tiêu trong một năm, để mua quà biếu chúa, may thay số tiền này được một con chiên, André và vợ, tặng lại. Quà tặng làm chúa hài lòng, chúa đổi thái độ đối với ông [Chúa lên ngôi năm 1635, chưa gặp ông lần nào, làm sao thay đổi thái độ?]. Rồi đức bà Marie, người mà de Pina đã rửa tội, có nhà thờ riêng trong cung, che chở cho các tín đồ, luôn luôn gọi ông đến nhà. Ông lại tiếp tục giảng đạo. Ông ở Huế 35 ngày, rửa tội cho ba bà lớn trong hoàng tộc và một vị đại sư.

Sau đó ông trở lại Hội An, phải lẻn trốn, để Onghebo không bắt được. Nhưng rút cục ông vẫn bị đuổi. Ông và cha Albert phải mua một chiếc thuyền tự lái lấy về tới Macao ngày 20/9/1640.

 

3- Lẻn vào Đàng Trong lần thứ hai

Ba tháng sau ông lại trở lại Đàng Trong lần hai với cha Benoit de Matttos, người Bồ, trong dịp Noël và được giáo dân Đà Nẵng đón tiếp nồng hậu. Hai ông rửa tội thêm cho 1637 người nữa, rồi Onghebo ra lệnh khám nhà tín đồ André (có một vợ hai con, đã nói ở trên), phá tan thánh giá, tượng, ảnh, khiến hai tu sĩ bắt buộc phải chia tay: Mattos đi giảng đạo ở Thuận Hóa, Quảng Bình, de Rhodes dành 6 tháng để đi giảng đạo ở Quảng Nghiã, Quy Nhơn và Phú Yên.

Ông lại rửa tội thêm được 1300 kẻ ngoại đạo. Ông kể rằng tại Phú Yên, có một ông thầy thuốc, tên thánh Emmanuel, sau khi tôi đến đây vài ngày, bị bệnh nặng khó qua khỏi, người thân quỳ xuống quanh giường cầu kinh, thấy ông đã trút hơi thở cuối cùng. Mấy tiếng đồng hồ sau, ông tỉnh lại, kể được Chúa cho lên thiên đường, đẹp tuyệt vời, lại được gặp những người theo đạo chúa đã khuất, thấy tất cả đều sung sướng. Thế là từ đó ông chỉ mơ được trở lại thiên đường, không ăn uống gì nữa, vài tuần sau ông chết thật, trong hạnh phúc. De Rhodes cho biết, Phú Yên không chỉ có một trường hợp Emmanuel, mà còn nhiều trường hợp khác như vậy. Phú Yên còn bà Marie-Madeleine, vợ quan trấn thủ Phú Yên, người đã xây một bênh viện cho giáo dân bi bệnh nan y. Phú Yên còn có một người đàn ông khoẻ mạnh kể lại rằng: khi ông ta nhận lễ rửa tội, ông ta nhìn thấy trên tay cha làm lễ, một đứa trẻ hài đồng, đầu toả vòng sáng ngũ sắc. Và cũng ở Phú Yên, ông đã trừ tà cho hai người đàn bà bị ma làm bằng nước thánh.

Nhưng Onghebo vẫn tìm ra ông và bắt ông lên tầu rời Quảng Nam.

Ông ra đi ngày 2/7/1641và đến Phi ngày 28/7/1641. Ở đây ông "biết" được vụ hai người Hoà Lan là nguồn cội sự tàn sát đẫm máu đạo thiên chúa ở Nhật: hai tên này cầm chiếc bản đồ chỉ cho Nhật Hoàng tất cả lãnh địa mà bọn Bồ và Y đã chiếm, tức là cả thế giới chung quanh nước Nhật, khiến Nhật Hoàng nổi giận ra lệnh tàn sát đạo trong suốt 40 năm trời, đạo thiên chúa từ thuở khai sinh, trong 12 thế kỷ, chưa bao giờ bị tàn sát như thế, cho nên ông quyết xin đi Nhật để được tử vì đạo; nhưng bề trên lại chỉ cho ông đi Đàng Trong.

 

4- Lẻn vào Đàng Trong lần thứ ba

De Rhodes một mình trở lại Đàng Trong lần thứ ba tháng 1/1642, ông lại tìm đến quan Trấn thủ Quảng Nam, mà ông vẫn gọi là Onghebo, là người tàn ác nhất. Lần này ông biếu xén rất hậu, nên Onghebo để yên cho ông trong gần hai năm.

De Rhodes lại tìm đến chúa, cho chúa xem vài cái đồng hồ ghi chữ Hán, chúa thích và giữ ông lại trong triều ít ngày. Ông kể: Trong thời gian này, ban ngày tôi ở bên chúa còn ban đêm tôi về với con chiên của tôi. Tôi giảng cho chúa những bí ẩn của toán học và giảng cho con chiên những bí mật của đạo.

Rồi ông đi khắp xứ Đàng Trong, thận trọng không ra mặt. Trong gần hai năm, ông đã tập hợp được một đội ngũ 10 đệ tử, từ 15 tuổi trở lên. Ông huấn luyện phép đạo cho họ thành thầy giảng. Ông gọi họ là các chiến sĩ. Đầu tiên hết là André, ở Phú Yên, rồi đến Ignace, lớn tuổi hơn cả, có trình độ cao, biết chữ Hán, có đạo đức vì đã làm quan toà (magistrat), Ignace là Đội trưởng (Capitaine), từ khi rửa tội, không bao giờ xa ông nữa, và Vincent gốc Quãng Ngãi là Đội phó và cả bẩy người kia, đều là chiến sĩ xả thân cho đạo Chúa. Nhờ Matthieu, và André, hai thầy thuốc ở Quảng Ngãi có tài cải tử hoàn sinh bằng nước thánh, chữa cho bao nhiên người chết sống lại, khiến cho mọi người bái phục phép lạ mà theo đạo.

Sau gần hai năm yên lành, ông trở lại Quảng Nam đón tầu Bồ, được người Bồ khuyên ông nên về Macao đã, rồi hãy trở lại sau, sẽ được thong thả hơn, không phải sống lén lút như thế này. Ông nghe theo, tổ chức một lễ lớn công khai giã từ Đàng Trong về Macao, đồng thời tấn phong cho 10 thanh thiếu niên chính thức làm thầy giảng, ông bổ nhiệm Ignace làm bề trên. Ignace là trưởng đoàn cùng André phụ trách truyền đạo từ Quảng Nam đến biên giới phiá Bắc, nửa còn lại phụ trách giảng đạo phiá nam, tới hết Phú Yên. Ông lên tầu về Macao tháng 9/1643.

 

5- Lẻn vào Đàng Trong lần thứ tư

Lần thứ tư và cuối cùng, tháng 1/1644, ông lại sang Cửa Hàn. Lần này ông đến trình diện chúa cùng với quà tặng. Được chúa tiếp đãi tử tế. Ông lại thăm bà Marie nhiều lần để rửa tội cho nhiều người trong hoàng tộc và nhiều người khác (theo ông kể thì nhiều lắm đến hàng trăm người trong triều đình). Rồi ông lại ra vùng Bố Chính (Quảng Bình) truyền đạo. Nghe tin ông ra đây, dân chúng ở bên kia luỹ Đồng Hới muốn ông vượt tuyến ra Bắc giảng đạo cho họ. Ông định đi nhưng lính của chúa Nguyễn bảo nếu ông sang bên địch thì họ sẽ báo cáo với chúa. Ông đành phải ở lại và gửi Ignace vượt tuyến ra giảng đạo. Bên kia bèn cử 10 người có đạo, đại diện họ vượt luỹ Đồng Hới sang gặp ông. Ông vô cùng cảm động, như người cha nhìn thấy con mình.

Ông kể tiếp: Khi trở lại triều đình, tôi tìm gặp ông quan đại thần rất có ảnh hưởng với chúa. Tôi tặng ông một số sách mà các tu sĩ đã viết về đạo, bằng chữ Hán, ông hứa sẽ đọc và sẽ bàn lại với chúa. Rồi ông quan này cho phép gia đình theo đạo. Một ông quan to nữa sau khi nghe ông bạn nói về tôi, bèn tổ chúc một buổi họp mời nhiều người đến nhà nghe tôi giảng đạo. Tôi thuyết phục được nhiều người nhưng cũng có nhiều người đặt câu hỏi. Cuộc nói chuyện gây tranh cãi, tôi gọi Ignace ra đối chất, không ngờ lại gây thêm phiền phức [khiến nhiều người ghét Ignace]. Đến khi tôi thấy chúa có vẻ tán thành tôi, tôi thận trọng xin chúa thêm những ân huệ mới cho giáo dân.

 

6- André bị hành hình

Nhưng rồi chuyện chẳng lành xẩy ra, và đây là câu chuyện André, ông thuật lại nguyên văn như sau:

"Tháng 7/1644, quan Trấn Thủ Quảng Nam từ triều trở về với lệnh không phải của Chúa, vì chúa vẫn tốt với tôi, mà của bà hoàng rất thù người công giáo, đặc biệt Ignace. Ông Trấn Thủ nhận lệnh của bà, ban đầu bắt giam ông già tên André [đã nói ở trên] rồi ông gửi một đoàn lính đến nhà chúng tôi, bắt Ignace, định để giết. [Chỗ này de Rhodes lại không nhắc đến Onghebo nữa, mà ông lại nói thẳng là quan Trấn Thủ Quảng Nam. Tôi không nghĩ quan Trấn Thủ Quảng Nam, nếu là Thế tử Nguyễn Phước Tần -tháng 5/1644 ông vừa đánh tan 10 chiếc tầu Hoà Lan tại cửa Thuận An khiến bọn Hoà Lan không dám bén mảng tới nữa- làm sao thế tử có thì giờ và phải tuân lệnh một bà hoàng (?) đi bắt một kẻ vô danh tiểu tốt là Ignace]. Nhưng tôi không ở nhà [chính] mà đang cùng với Ignace và các thầy giảng khác ở nhà kho với André để trong nom bốn người bạn của họ đang bị ốm. Rồi tôi đi chào ông Trấn Thủ, vì không biết ông đang âm mưu chống chúng tôi, chỉ khi đến cửa dinh, một vị quý tộc Bồ báo cho tôi việc vừa xẩy ra, ông khuyên tôi nên về ngay đưa những thầy giảng đi trốn.

Tôi giải tán tất cả đám thanh niên này, mặc dù họ chẳng muốn gì hơn là được tử vì đạo, và tôi tiến vào gặp ông Trấn Thủ, làm như chưa biết việc gì đã xẩy ra. Ông ta nói vói tôi giọng rất xẵng, tôi biết có xin cũng bằng thừa. Tôi vào nhà tù thăm ông già André, ông ta đang đeo một cái thang (lối cùm ở đây), nhưng thấy rất vui vẻ như đang ở trên cung [trăng]. Tôi muốn ở lại bên ông suốt đêm nhưng người canh tù không cho. Tôi bèn lui về chiếc thuyền nhỏ mà các thầy giảng đang chờ.

Lúc này bọn lính đang phá hại nhà chúng tôi. Chúng xông vào, tìm Ignace, nhưng André nói rằng cậu ta cũng có đủ các tội giống như Ignace, (nếu muốn bắt thì nên bắt cậu ta). Trở về tay không thì xấu hổ, nên họ bắt André, trói tay dẫn đi sau khi đã lục lọi khắp nơi và ăn cắp hết ảnh, tượng, trang hoàng nhà thờ. André hoan hỷ đi theo họ, miệng cầu cho những kẻ bắt cậu tránh được điạ ngục để lên thiên đàng. Điều này chọc tức bọn lính hơn là cải hóa chúng. Bọn lính đi ngang chỗ thuyền chúng tôi đậu, hỏi có biết Ignace ở đâu không? Nhờ trời tối nên chúng không nhìn thấy. André bị dẫn đến trước vị trấn thủ, bị buộc tội là người công giáo và tội giảng đạo, rồi tức khắc bị dẫn vào giam cùng với ông André già. Họ cùng nhau qua một đêm mà cả hai cho là đêm cuối cùng, an ủi nhau và hẹn ngày mai gặp nhau ở trên trời. Ngày hôm sau, viên trấn thủ làm bộ xử án, đưa hai kẻ vô tội ra trước toà, và tức khắc tuyên án không nghe biện bác gì cả. Rồi cho họ trở lại chỗ giam bảo rằng sẽ xử trong ngày. Tôi chạy vội lại nhưng bản án đã tuyên, tôi cùng những người Bồ đến xin trấn thủ nhiều lần, vừa phiền nhiễu vừa đe doạ, nhưng ông ta giữ vững quyết định; ông ta nói với tôi: ta tha cho tên già vì ta thương con nó, còn tên trẻ hợm hĩnh này, nó đã nhận nó theo đạo công giáo, có chết cũng không bỏ đạo, vậy nó sẽ chết như lời nó nói, để làm bài học cho những kẻ dám trái lệnh chúa.

Khi thấy không thể cứu được André, tôi quyết định bài trí cái chết của cậu thành cái chết của người công giáo thực thụ và người tuẫn đạo thực thụ. Tôi không kể ra đây những gì tôi đã làm với cậu trong nhà tù vì quá dài. Khi nhìn thấy tôi, sau khi nghe tuyên án tử hình, cậu trở sang trạng thái rạng rỡ hoan hỷ tuyệt vời, cậu nói với những người theo đạo có mặt, tất cả những điều mà thánh Laurent nói khi ông sắp bị thiêu. Cậu xưng tội, rồi cầu nguyện, nói lời vĩnh biệt tất cả, và cậu hoan hỷ đi theo đội bốn mươi người lính, đến một cành đồng cách thành phố nửa dặm.

Tôi vẫn theo sát cậu, mặc dù họ đi rất nhanh và cậu bị đóng gông (thang) trên cổ. Khi tới nơi vinh hiển, cậu quỳ gối ngay, để có can đảm chiến đấu. Bọn lính bao quanh cậu, đuổi tôi ra ngoài, nhưng người đội trưởng cho phép tôi trở lại đứng cạnh cậu. Cậu vẫn quỳ, đôi mắt nhìn lên trời, miệng mở, gọi tên chúa Jésus.

Một tên lính đến từ phiá sau, ném thương đâm thủng người cậu, luỡi lao lòi ra trước ngực ít nhất hai gang tay; André thân ái nhìn tôi như vĩnh biệt, tôi bảo cậu hãy nhìn lên trời, nơi cậu sẽ đến với Chúa Jésus đang đợi cậu. Cậu nhìn lên trời và không cúi xuống nữa. Vẫn tên lính đó rút thương đâm thêm hai lần nữa, như muốn trúng tim.

Nhưng André không rung động gì cả, thực đáng khâm phục. Sau cùng, một tên lính khác thấy ba nhát thương chưa làm cho cậu ngã ra đất, bèn lấy mã tấu chặt cổ, cũng không đứt, hắn đưa mã tấu lần thứ nhì, mạnh quá đến nỗi y cắt đứt họng, đầu rơi sang phải, chỉ dính chút da. Nhưng liền khi tôi nghe rõ tiếng đầu lìa khỏi cổ, thì tên chúa Jesus không còn phát ra từ miệng cậu, mà phát ra từ vết chém, cùng lúc đó linh hồn cậu bay lên trời, thân cậu rơi xuống đất.

Bọn lính rút đi, để lại cho chúng tôi thánh tích quý báu, chúng tôi mở rộng vòng tay đón nhận, rồi đặt vào trong chiếc hòm đẹp, lượm tất cả máu cậu, để làm tang lễ, không huy hoàng mà thành kính cho vị thánh tử đạo. Tôi đem hòm thánh tích về thuyền, nơi tất cả những bạn đồng hành của cậu đang chờ. Khi họ nhìn thấy tôi với thi hài người bạn đã về trời, họ nổi sùng, vừa đau thương vừa hạnh phúc. Tôi gửi thi thể về Macao, thi hài đã được tu viện tiếp đón vô cùng trọng thể; rồi sau, tôi làm một biên bản với 23 nhân chứng hiện diện trong buổi hành hình, nhưng tôi giữ cái đầu lại cho tôi, và Thượng đế đã giúp tôi mang được về Roma" (trang 236-241).

Ông kể tiếp: ba ngày sau khi André tử đạo, phép lạ xẩy ra: tự nhiên lửa đốt cháy nhà tù nơi nhốt André, lửa đốt cháy những nơi thờ quỷ thần (ý nói đền, chùa), bốn người bệnh nặng cầu vị thánh vừa tử nạn, khỏi bệnh. Người ta báo cho tôi biết phải đi. Tôi làm bộ lên tầu Bồ cùng với thi thể André, nhưng đã dặn các thầy giảng ban đêm đem thuyền ra đón tôi quay trở lại. Cùng với 9 thầy giảng còn lại chúng tôi tiếp tục công việc truyền đạo.

Hình chụp sọ thánh André

Việc cấm đạo càng tăng thì những người theo đạo càng quyết tâm chống lại. Onghebo tăng cường đán áp, ra lệnh phá ba nhà thờ ở vùng Quy Nhơn. Giáo dân can trường chống lại, họ sẵn sàng tử vì đạo, can đảm đứng lên chống lại, khiến chính quyền phải nhượng bộ. Ông kể, ông bị bắt giam một thời gian ở Qui Nhơn, nhưng các quan không dám buộc tội ông, nên họ lại thả ra. Ông tiếp tục giảng đạo.

Ngày 15/2/1645, ông rời Qui Nhơn bằng thuyền ra Quảng Nam, bị bão, mãi sau mới đến được Hội An. Tại đây, ông biết việc bà Marie [Minh Đức] vì con trai bà [ông hoàng Nguyễn Phước Khê] nghe chúa than phiền chi đó về những người theo đạo đã sai phá nhà thờ của mẹ trong cung, khiến bà vô cùng rầu rĩ. Tôi muốn đến an ủi bà nhưng không dám lộ diện, phải trốn ở thành phố nhỏ bên cạnh, rủi thay hôm đó chúa cũng ra nơi này mua vui, tại căn nhà kế cạnh. Bỗng lửa phát cháy [ở một nhà bênh cạnh] mà tôi không dám chạy sợ chúa thấy, tôi bèn cầu nguyện cho gió đổi chiều, nhờ đó tôi thóat nạn.

Ba ngày trước lễ Pentecôte, tôi lấy thuyền cùng đội ngũ 9 thầy giảng, đi về hướng bắc (Quảng Bình), gặp ba chiến thuyền của chúa đang đi tuần ở biên giới, vì họ nghi chúa Trịnh lại định đánh miền Nam. Thấy chúng tôi, họ bắt ngay, họ tưởng chúng tôi được chúa Trịnh gửi vào. Họ báo tin về triều, chúa ra lệnh giải chúng tôi về triều.

Vài ngày sau, trước hội đồng chính phủ, chúa tuyên án tôi tử hình, xử ngay trong ngày. Nhưng một ông quan lớn, trước là thầy dạy chúa, đứng ra can: "Nếu chỉ vì tội truyền giáo mà giết họ thì không đúng, vì đạo này không làm gì xấu xa. Nếu không có tội gì khác, mà giết họ, thì đây không phải là luật pháp, mà là sự tàn bạo, giết người". Nghe những lời này, chúa nguôi giận, nói: "Vậy thôi, thầy đã nói thế, thì ta rút lại lời lúc nãy, ta cho tên tu sĩ Bồ này sống sót với điều kiện y phải ra khỏi đây vĩnh viễn, không bao giờ được trở lại."

Ngày 3/7/1645, de Rhodes rời Đàng Trong. Ông tới Macao ngày 23/7/1645.

Vẫn theo lời ông kể, ba ngày sau khi ông tới Macao, chúa gọi 9 thầy giảng đến và bảo họ phải bỏ đạo. Chính chúa hỏi cung: có phải các ngươi theo đạo không? Và nếu họ đã trót theo đạo, thì bây giờ chúa bảo phải bỏ đạo. Ignace nói thay mọi người: Tất cả mấy anh em đều theo đạo, và sẽ theo đạo đến chết. Chúa nổi giận: nếu đã bị tuyên truyền mà dám trái lời ta, thì thử xem có đủ nghị lực để chiụ đớn đau không. Ignace trả lời rằng chúng tôi yếu đuối, nhưng phép cả của chúa Jésus-Christ cao dầy hơn tất cả các vua trên thế giới. Rằng đây không phải là lần đầu tiên phép cả thắng thế trên tất cả các quyền lực mạnh nhất thế giới. Cuộc đấu khẩu kèo dài khá lâu. Ignace nói liên miên, Vincent cũng phụ hoạ, bảy người còn lại gật gù tán thành. Nhiều quan trong triều cất lời khuyên họ nên tuân theo lệnh chúa nếu không muốn bị khốn khổ. Ignace trả lời: Khốn khổ! Không bao giờ một người công giáo thực thụ bị khốn khổ. Kẻ đã nhìn thấy thiên đường, không lẩn tránh cái chết, và kẻ khinh thường cái chết, không có gì để sợ nữa. [Không biết đoạn đối thoại này đúng tới bao nhiêu phần trăm, nhưng dưới thời phong kiến, chỉ một câu phạm thượng trên đây, cũng đủ mất đầu rồi]. Cuối cùng, Ignace và Vincent vì đã nói hộ các bạn, bị xử tử. Bẩy người còn lại bị chặt một ngón tay. Và vẫn theo lời kể của de Rhodes: họ sung sướng ra pháp trường, những người chỉ bị chặt một ngón tay mong được chặt đầu để lên thiên đưòng cùng với các bạn, cái đầu Ignace sau khi rơi xuống đất còn hô to ba lần tên chúa Jésus.

 

Nội dung cuốn ký sự của ông đại để là như thế, cho nên rất ít nơi trích lại. Cadière âu yếm bảo ông có lối viết "ngây thơ", đầy "nhiệt tình", thu hút bao nhiêu người (Pháp thôi). Nhưng nói đến chân dung de Rhodes, Cadière lại nghi là không thật so với tuổi ông lúc ấy (ý nói chắc ông cho vẽ mình trẻ đẹp lên). Riêng đứng về phiá người Việt, tôi nhận thấy ông de Rhodes đã làm tất cả những việc cấm kỵ một cách "ngây thơ, hồn nhiên": bị cấm nhưng lẻn vào Đàng Trong bốn lần. Chưa hết, đã lẻn vào rồi, thử tưởng tượng thời 1954-75, một linh mục vào lậu, ra cầu Hiền Lương bảo với lính canh: tôi sang bên kia sông truyền đạo nhé. Lính bảo không được, ông bèn gửi một thầy giảng sang sông, rồi còn kéo 10 người bên kia sang bên này nghe ông giảng đạo!

Nhưng điều đáng ngại là sự lạnh lùng của de Rhodes trong cách xử sự, câu: "nhưng tôi giữ cái đầu lại cho tôi" (mais je gardai la tête pour moi) thật là rùng rợn, khó có thể có ở một người tu hành. Rồi ông còn đem cái đầu ấy, giả vờ lên tầu, rồi lại quay trở lại Đàng Trong mà không về Macao, thì thật ghê. Nếu ông không bị bắt lại và không bị trục xuất thì ông đem cái đầu đi đâu?

Ta nên hiểu rõ tình hình lúc bấy giờ: Việc cấm đạo thường liên quan đến tình hình chính trị. Sau khi chúa Sãi theo lời khuyên của Đào Duy Từ, từ chối không đóng thuế cho chúa Trịnh nữa. Chúa Trịnh Tráng mượn cớ đánh vào Nam lần thứ nhất, năm 1627. Và chúa Sãi cấm đạo lần thứ nhất năm 1628. Bởi vì các chúa rất ghét việc giáo sĩ đi lại giữa hai miền, sợ họ làm gián điệp cho bên kia. Chúa Trịnh còn bắt Baldinotti phải thề không bao giờ vào Nam. Mỗi khi đánh nhau hai bên thường cấm đạo ngặt nghèo hơn.

Ngoài ra còn có lý do tôn giáo: Các giáo sĩ luôn luôn khinh bỉ đạo Phật, đạo Lão và việc thờ cúng tổ tiên, họ gọi chung là đạo mê muội thờ quỷ thần, nên cả hai bên lương giáo đều ghét nhau. Nước ta có truyền thống thờ cúng tổ tiên và theo đạo Phật, các chúa đều chịu sức ép của đạo Phật và "đạo" thờ cúng tổ tiên. Theo lời de Rhodes kể, sau khi André bị hành hình, người ta đốt đình chùa. Ai đốt? Nếu không phải là người công giáo? Chưa kể là tình hình Đàng Trong rất căng thẳng vì chuyện nội bộ: sau khi chúa Sãi mất (1635), chúa Thượng lên ngôi, người em là Ánh liên kết với miền Bắc, nổi lên chống lại. Nguyễn Phước Khê, con bà Minh Đức, em út chúa Sãi, hết sức phò chúa Thượng, ông đứng lên dẹp loạn, giết Ánh. Trịnh Tráng lợi dụng tình thế sai tướng vào chiếm miền nam Bố Chính, đóng ở Nhật Lệ.

Năm 1643, Trịnh Tráng lại rước vua Lê, đem đại binh vào đánh bắc Bố Chính (đánh nhau lần thứ ba) nhưng trời nóng quá, quân sĩ chết nhiều, phải rút về. Tuy vậy, tình hình vẫn rất căng thẳng. Vì thế chúa Thượng cấm đạo gắt gao hơn và ông hoàng Khê đã bắt mẹ phá nhà thờ để làm gương cho mọi người. Tháng 5/1644, quân Hòa Lan đánh phá cửa Hội An, thế tử Nguyễn Phước Tần dẹp tan. Cho nên ta không hiểu de Rhodes làm gì mà mang đầu lâu André ra vùng Bố Chính, trong tình hình này? Nếu đi giảng đạo, tại sao lại chọn chỗ gây cấn nhất? Vậy khi ông bị bắt, ông có biện hộ gì đi chăng nữa thì chúa Thượng vẫn nghi ông muốn trốn ra Bắc, hoặc làm nội ứng cho chúa Trịnh, nên ông mới bị kết án tử hình, vì ba lần trước ông chỉ bị trục xuất.

Lại còn truyện thi hài André: Linh mục Cadière chú ý đến những chi tiết sau đây:

De Rhodes cho biết ông gửi thi hài André bị chặt đầu ngày 26/7/1644 về Macao. Và "ở Macao, thi hài đã được tu viện tiếp đón vô cùng trọng thể" ông đã thuê người vẽ lại cảnh hành hình với đầy đủ chi tiết: "Thi hài của André hạnh phúc đời đời, tử nạn ở Đàng Trong, đã được đặt trên ban thờ Thánh, làm giầu cho tu viện Macao, nơi lưu trữ nhiều thánh tích của người tử vì đạo ở Nhật Bản, giữa những bức tranh vẽ họ còn có thêm bức do Mathieu Van (Vân hay Văn) vừa vẽ người mới tử đạo". Ông nhắc đi nhắc lại câu: "tôi luôn luôn ở cạnh cậu", "chúng tôi đã tiếp nhận chứng tích quý báu (tức thi thể André) trong vòng tay của chúng tôi". Cadière muốn tìm hiểu thêm, ông viết thư cho P. Biottaux, Quản lý hội truyền giao hải ngoại ở Hồng Kông, thì được thư trả lời của Giám Mục Macao: "Ngày nay, ta không biết gì vế dấu tích của vị tử đạo [André ] [lần đầu tiên ta thấy tên xuất hiện ở đây, nhưng không biết là tên hay là họ]. Nhà thờ Saint Paul còn giữ nhiều đồ vật của các cha dòng Tên cho tới năm 1835, thì bị cháy ngày 26/1/1835 (...) Nếu thánh tích của vị tử nạn [André ] được bảo toàn, thì chắc đã bị pha trộn với các thánh tích khác, còn lại trong Thánh Đường. Còn bức tranh vẽ lại cảnh André Lý tử nạn, nó còn được giữ tới năm 1835, và có lẽ đã bị cháy sau đó. Hoặc nó bị hư hỏng hoặc bị mất sau khi các giáo sĩ dòng Tên ra đi, khi giáo hội phải trao cho chính quyền thế tục, và tu viện trở thành trại lính". (Cadière, Iconographie du P. de Rhodes, BAVH, 1938).

Việc de Rhodes thuê người vẽ lại bức tranh hành hình chứng tỏ ông có chủ đích lưu truyền cho hậu thế sự kiện này.

 

II.3 Vận động của de Rhodes với Roma

 Ngày 20/12/1645, de Rhodes rời Macao để về Châu Âu, ông đến Roma ngày 27/6/1649, trong một chuyến đi kéo dài ba năm rưỡi, đầy sóng gió, có khi bị tù. Vẫn không hiểu ông làm thế nào để giữ thủ cấp André trong thời gian dài như vậy?

Tới Roma, với sọ của André làm chứng, ông trình bầy "tội ác" của các Chúa Đàng Trong và Đàng Ngoài, vì dân chúng muốn theo đạo nhưng bị nhà cầm quyền tàn sát. Điều này sai sự thực bởi André bị bắt vì tuổi trẻ kiêu ngạo, cậu đã thách đố bọn lính rằng ta cũng có tội như Ignace, tại sao các ngươi không bắt, mà tìm Ignace làm chi? Rồi tình thế đưa đẩy khiến André phải chịu tử hình. Nguyên do từ một chuyện nhỏ, nhưng de Rhodes đã nâng cấp lên thành chuyện lớn, trong khi ông biết rõ là chúa Thượng đã để cho ông giảng đạo trong gần hai năm mà không bắt, và cho tới đó, chúa chưa ra lệnh giết ai vì theo đạo.

Sau khi báo cáo với Giáo Hoàng tình hình "sát đạo" ở Việt Nam, ông thỉnh cầu giáo hội:

- Hiện nay nước này mới chỉ có những thầy giảng bản xứ (chưa đủ trình độ để giảng đạo), cần phải đào tạo những linh mục bản xứ, trực tiếp giảng đạo để khỏi phụ thuộc vào giáo hội Bồ.

- Phải bổ nhiệm một vị Giám mục cho Đàng Trong và một vị nữa cho cho Đàng Ngoài, mục đích thoát khỏi sự chỉ đạo của giáo hội Bồ Đào Nha.

Ông rời Roma ngày 11/9/1652, để tìm tài trợ cho chương trình. Sang Paris năm 1653, ông được sự ủng hộ của hoàng gia Pháp, thành lập nền móng đầu tiên cho Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc (Missions étrangères). Giáo Hoàng Innocent X đã không tán thành dự tính của ông (đuổi Bồ ra khỏi nước Việt) nhưng ngài mất năm 1655. Giáo hoàng Alxexandre VII lên thay, thiên vị Pháp. Hè 1657, những đại diện của Bồ Đào Nha bị đuổi khỏi Roma, giáo hoàng tiếp phái đoàn Pháp đến trần tình (chương trình của de Rhodes) và được chấp nhận.

Ngày 27/8/1658, Giám Mục François Pallu và Giám Mục Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm Khâm sứ Giáo Hoàng ở Đàng Ngoài và Đàng Trong. Giáo sĩ Pháp hoàn toàn thay thế giáo sĩ Bồ và Y ở VN.

Từ năm 1662 đến năm 1664 Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc của Pháp được thành lập ở Paris, Rue du Bac. Năm 1664 Bộ trưởng tài chính Colbert thành lập Công Ty Pháp-Ấn, tương tự như công ty Anh-Ấn, bề mặt buôn bán, nhưng thực chất là cơ quan chỉ đạo cho chính phủ Pháp ở hải ngoại trong việc đánh chiếm thuộc địa. Tháng 11/1654, de Rhodes bị thuyên chuyển sang Perse (Iran). Ông mất tại đây vào tháng 11/1660.

Nếu nói là công, thì Alexandre de Rhodes quả có công rất lớn với nước Pháp, ông đã "lật đổ" được phái bộ giáo sĩ Bồ Đào Nha, từng lãnh đạo việc giảng đạo ở Á Châu từ đầu thế kỷ XVII, đến ngày 27/8/1658, theo lệnh giáo hoàng, mới bị phái bộ giáo sĩ Pháp thay thế. Việc này dẫn đến việc bộ trưởng tài chính Pháp thành lập Công Ty Pháp-Ấn, mở đầu cho giai đoạn Pháp chinh phục thuộc điạ. Và nhờ có cơ sở của các giáo sĩ Pháp ở Việt Nam, họ đã đánh và chiếm được nước ta.

 *

Đối với Việt Nam, Alexandre de Rhodes đã khuấy động hận thù khi ông quyết chí và can trường đem thủ cấp của André về Roma để báo cáo với giáo hoàng và thế giới "tội ác" của chúa Nguyễn. Nhưng ta nên biết rằng thời ấy cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, kẻ ăn cắp và người ngoại tình đều bị xử tử (theo lời Borri và Baldinotti). Các thầy giảng người Việt còn quá trẻ, có kẻ vị thành niên, bị Alexandre de Rhodes chinh phục, đã hết lòng phục vụ một người ngoại quốc, mà dưới mắt các chúa và sau này các vua triều Nguyễn, hành động này bị coi là "phản quốc". Từ thời chúa Hiền Nguyễn Phước Tần, các thầy giảng đều bị bắt buộc phải bước qua thánh giá, nếu không sẽ bị tử hình. Nhưng triều đình không có lệnh giết giáo dân. Vua Thiệu Trị, Tự Đức đều nói: bọn dân chúng ngu muội, ta phải tản mát chúng ra, để chúng không chịu ảnh hưởng tai hại của các cha cố nữa.

Trong khi, Nhật có chính sách cấm đạo đẫm máu hơn nhiều: Mạc Phủ xử tử các giáo sĩ ngoại quốc lẻn vào đất Nhật. Ở Việt Nam, các giáo sĩ ngoại quốc, chỉ bị trục xuất, sau này có một số bị tử hình vì họ bị bắt trong những tổ chức phản loạn chống lại triều đình (Cha Marchand 1835, loạn Lê Văn Khôi, cha Schaeffler, 1851, loạn Lê Văn Lương, v.v ...).

Còn công của de Rhodes đã tạo ra chữ quốc ngữ, làm nền móng cho tiếng Việt ư?

Nền móng gì? Khi nói đến nền móng, các vị học giả của báo Tri Tân đã không phân biệt được vấn đề tiếng nóichữ viết: Tiếng Việt mà chúng ta nói và Nguyễn Du làm thơ, là thứ tiếng của muôn đời, bất di bất dịch. Khi ghi lại thứ tiếng này, bằng tượng hình giống như chữ Hán (chữ Nôm) hay bằng ngữ tự La tinh (chữ Quốc ngữ) tiếng Việt vẫn là tiếng Việt. Không phải vì nó được ghi bằng mẫu tự La tinh, mà ta hiểu được tiếng Pháp, hiểu được văn hóa Pháp và văn minh Tây phương. Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn dùng chữ "nôm" của họ có sao đâu?

Chữ quốc ngữ chỉ giúp cho các nhà truyền giáo Tây phương có thể ghi lại bài giảng đạo tiếng Việt của họ một cách dễ dàng hơn là dùng chữ Nôm. Và đối với người Pháp khi đánh chiếm nước ta, thấy một thứ chữ viết mà họ có thể nhận diện dễ dàng vì dùng mẫu tự La tinh.

Riêng đối với người Việt, khi ta chỉ học chữ quốc ngữ không thôi, thì ta hoàn toàn bị chia cắt với quá khứ chữ Nôm, chữ Hán: Ta không đọc được gia phả, không đọc được bất cứ tác phẩm cổ văn nào của ta, và những sách lịch sử điạ lý, nếu không dịch ra quốc ngữ.

Vậy có nên biết ơn những người làm ra thứ chữ ấy và những kẻ bắt buộc ta dùng thứ chữ ấy hay không?

Nhưng không ai làm lại được lịch sử. Và ta đành phải chịu.

Paris tháng 5/2019

Thụy Khuê

 (Còn tiếp)

I. Sài Gòn-Châu Đốc-Hà Tiên
II. Côn Đảo
III.
Nha Trang
IV. Phú Yên
V. Quy Nhơn

VI. Dòng họ Nguyễn Tường ở Hội An
VII. Trận Đà Nẵng 1847 và 1858
VIII. Huế
IX. Trên đường ra Bắc

X. Về quê Bắc

 

© 2019 Thụy Khuê